Sự tích về con Kỳ Lân
Con Kỳ Lân Trong Tứ Linh – Biểu Tượng Của Sự Trường Thọ Và Hạnh Phúc Lớn Lao
Kỳ lân – một trong bốn linh vật cao quý: Long, Lân, Quy, Phụng. Lân là con cái, còn con đực gọi là Kỳ, gọi chung là Kỳ Lân. Kỳ lân là một con vật có đầu nửa Rồng nửa Thú, nó chỉ có một sừng, do nó không húc ai bao giờ nên chiếc sừng này được xem là hiện thân của Từ Tâm.
Kỳ lân ở Triều Tiên
Nhưng phần lớn hình ảnh Lân được khắc họa là có sừng của loài Nai, tai Chó, trán Lạc Đà, mắt Quỷ, mũi Sư Tử, miệng rất rộng, có thân Ngựa, chân Hươu, đuôi Bò. Đôi khi nó lại có hình dáng của một con hưu xạ, với chiếc đuôi Bò, trán Sói, móng Ngựa, da có đủ 5 màu: đỏ, vàng, xanh, trắng, đen, đặc biệt dưới bụng có màu vàng đặc trưng… Cũng có khi con vật này xuất hiện dưới hình dáng có mình của một con Hoẵng, có vảy cá trải dài khắp thân…
Nhưng cho dù con Lân có xuất hiện với hình dạng như thế nào đi nữa thì trong tín ngưỡng dân gian phương Đông, Kỳ Lân cũng là con vật báo hiệu điềm lành sắp đến, là biểu tượng cho sự nguy nga đường bệ, sự trường thọ và niềm hạnh phúc lớn lao. Kỳ lân mang trong mình tất cả những phẩm chất đặc trưng của một con vật nhân từ, khi di chuyển nó tránh giẫm lên các loại côn trùng và cỏ mềm dưới chân mình.
1. Con Lân – Biểu Tượng Của Điềm Lành
Loài Lân không bao giờ ăn thịt hay làm hại bất cứ con vật nào, đặc biệt nó không bao giờ uống nước bẩn, nó chỉ ăn cỏ, nên gọi nó là Nhân thú (con thú có lòng nhân từ)
Kỳ lân có tánh linh, khi có vua chúa, thánh nhân ra cứu đời thì Kỳ lân sẽ xuất hiện báo trước điềm lành, sắp có thái bình thịnh vượng.
Con Lân mang biểu tượng của điềm lành sắp đến
Ở Trung Quốc, Lân cũng được sử dụng như con vật linh thiêng bảo vệ cho các công trình kiến trúc, dinh thự, lăng mộ… Nó được dùng để trang trí trên các bức bình phong của chùa, đền, miếu… nhiều lúc nó lại chuyên chở trên lưng các bức cổ đồ hình bát quái… với ý niệm thể hiện sự may mắn luôn song hành cùng chữ nghĩa, đạo lý trong cuộc sống, đó là sự bảo trợ cần thiết mang tính linh thiêng.
Con kỳ lân
Hình tượng Lân cũng đã du nhập vào Việt Nam theo bước chân xâm lăng và ý muốn đồng hóa dân tộc Việt của người Hán. Sự truyền bá văn hóa đó đã diễn ra có lúc mãnh liệt có lúc tàn bạo với ý muốn hủy diệt. Hình tượng Lân từ đó đã xuất hiện nhiều hơn tại Việt Nam, ngay cả sau khi đất nước đã giành được độc lập.
Tuy nhiên, bên cạnh chi tiết trang trí con Lân thì trên các công trình kiến trúc, đồ gốm, đồ đồng ở nước ta thì còn xuất hiện thêm một hình tượng trang trí rất thú vị, nó có hình dáng rất giống với con Lân nhưng không hẳn là con Lân.
2. Loài Vật Giống Lân Nhưng Không Phải Con Lân
Một vị linh mục người Pháp tên L.Cadiere, người có tinh thần khách quan trong những công trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam, đã đặt câu hỏi về những chi tiết trang trí này.
– “Có một con vật rõ ràng nó không phải là con kỳ lân thực sự, mà nó có vẻ là con sư tử, hay là thuộc một giống vật nào đó đặc biệt khác nhưng nó lại được người Việt Nam gọi là con Kỳ Lân. Nó là con vật mà chúng ta rất hay thường thấy ở trên đầu các trụ trước các đền chùa. Nó có một bộ lông, cái đầu, cái đuôi, nhất là những móng vuốt, thay cho những móng đề, đã làm cho con vật này giống với con Sư Tử hơn là một con Kỳ Lân”.
Con vật giống con Lân nhưng không phải con Lân
Sự nghi ngờ ấy là có cơ sở vì kỳ lân là một con vật tưởng tượng, sẽ hiện diện trên thực tế với ý niệm và tâm hồn của văn hóa đất nước nó đang tồn tại. Con vật mà người Việt ta thường sử dụng trong các công trình kiến trúc cũng nhằm mục đích chuyển tải những ước muốn may mắn, tất nhiên nó cũng chịu ảnh hưởng của con kỳ lân Trung Quốc, nhưng sẽ thật sai lầm nếu cho rằng con vật đó là con Kỳ Lân đến từ phương Bắc.
3. Con Nghê – Linh vật thuần Việt
Con Nghê với những hình ảnh rất giống với con kỳ lân Trung Quốc. Đó là con vật không có sừng, mình không lớn,, chân ngắn và thường có móng vuốt, nó không có vảy ở thân, đầu, mình và đuôi thường có lông che phủ. Với hình dáng nhỏ nhắn này phần nào cũng thể hiện được nét tinh nghịch và vui tươi. Nghê là hình ảnh được dùng để trang trí nhiều ở Việt Nam.
Con Nghê Việt Nam
Trong đời sống của người dân Việt, hai con thú được coi như những người bạn thân thiết, gần gũi và quan trọng nhất thời bấy giờ là con trâu và con chó. Trâu để cày ruộng, giúp sản xuất lúa gạo, chó để giữ nhà, phòng kẻ gian và thú dữ
Trong đời sống thực tế có chó giữ nhà, còn đời sống tâm linh thì sao? Ông cha ta cũng cần một linh vật để chống lại các tà ma ác quỷ nữa chứ? Và từ đó hình ảnh con Chó Đá đã được dựng lên.
Chó đá
Ở các làng quên miền Bắc Việt Nam, trước cổng làng nào cũng vậy, bao giờ cũng có một con chó đá để bảo vệ cả làng, trước cổng đình, cổng nhà, ngoài cửa nhà bao giờ cũng có chó đá ngồi trước canh giữ cho gia chủ.
Chó đá canh nhà
Những con chó đá này hình dạng cũng có nhiều sự thay đổi, chó đá cao khoảng từ nửa thước tới một thước, nó thường là những tảng đá được khắc đẽo rõ ràng và oai vệ, nhưng có khi nó chỉ đơn giản là một khối đá đặt nghiêng theo dáng một con chó đang ở thế ngồi canh giữ.
Khối đá hình dạng giống chó đang ngồi canh nhà
Chó Đá cũng được bày trước điện thờ, hay bàn thờ của những nhà giàu có, ở các đình chùa, đền miếu. Chó đá được khắc đẽo với những chi tiết rất oai vệ, đầu chó, mặt chó đầy những nét oai nghiêm. Chó Đá từ đó cũng hóa linh vật. Vì linh thiêng như thế, nên nó được gọi là con Nghê.
Con Nghê còn được dùng để trang trí trong các ngôi đình cổ ở Việt Nam. Nghê được chạm trên xà ngang từ cột ra để đỡ xà dọc ở mái ngoài, hay được đặt trên “đầu đao” (sống mái chạy từ đỉnh nóc nhà xuống, cong lên như hình cây đại đao (1 loại mã tấu) nên gọi là đầu đao.
Vậy con Nghê là một linh vật thuần Việt được sáng tạo để bảo vệ đời sống tâm linh của người Việt…
Tuy nhiên, con chó đối với người Việt vẫn chưa được thiêng hóa đến mức có thể coi là linh vật để được khắc họa trên các trụ biểu, đầu đao hay trấn giữ cổng chùa, đền, miếu…
Vẫn còn đâu đó những danh xưng có phần miệt thị và bạc bẽo tồn tại trong dân gian dành cho con chó, đồ con chó, đồ chó… v.v…
4. Con Nghê và Phật Giáo
Trên thực tế, Nghê (hay Toan Nghê) trong tiếng Hán có nghĩa là con Sư Tử. Điều đó có đồng nghĩa Nghê chỉ là con vật mang hình dạng của sư tử không?
Merher Mc Arthur chỉ rõ: “tại cổng vào của một số đền chùa, nhất là ở Đông Á và Đông Nam Á thường có một cặp nghê, một thứ linh thú tựa như sư tử, từ Hán Việt là Phật sư, trấn giữ”.
Văn hóa Việt Nam với cơ tầng vốn có của mình bên cạnh việc tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa của người Hán đã tiếp nhận văn hóa đó trong hòa đồng một phần của văn hóa Ën Độ, cụ thể ở đây là Phật giáo.
Nếu văn hóa Hán theo bước chân những đạo quân xâm lăng phương Bắc tràn vào Việt Nam thì văn hóa Phật giáo đến với người Việt một cách nhẹ nhàng hơn. Người Việt trong hoàn cảnh phải chống lại thế lực hùng mạnh phía Bắc đã nương nhờ vào triết lý từ bi, khoan dung của Phật giáo để tồn tại suốt thời kỳ Bắc thuộc cũng như thời kỳ đầu độc lập.
Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà các nhà Lý, Trần chọn Phật giáo làm tôn giáo chính của đất nước dù trên danh nghĩa tôn giáo này không phải là quốc giáo. Các vị sư sãi đã đóng những vai trò quan trọng trong triều đình; chùa chiền, tự viện mọc lên khắp đất nước thời kỳ này và cả về sau…Phật giáo đã hòa vào lòng dân tộc Việt Nam; nói đến văn hóa Phật giáo cũng đồng nghĩa với việc đang nói đến văn hóa Việt Nam…
Ta cũng sẽ dễ dàng chấp nhận tượng nghê ở đầu các trụ biểu, đầu đao, cổng chùa, đền, miếu… là hình tượng của Phật sư hay sư tử trong văn hóa Phật giáo.
Trong lịch sử Phật giáo, sau khi Đức Phật giác ngộ, người ta thường nhắc đến Ngài như là Con sư tử của dòng họ Shakyas cũng như nói đến nguồn gốc vương giả và thừa nhận uy lực tâm linh vô biên của Ngài. Sư tử trong văn hóa Phật giáo thường biểu thị uy lực của Phật pháp, nhưng trong hình tượng chung, Sư Tử lại thể hiện sức mạnh của con vật là Chúa tể muôn loài, quyền năng và quý trọng. Hình tượng sư tử ở ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam có những nét không giống nhau tùy theo cách hiểu và vận dụng ý nghĩa ban đầu của con vật này ở mỗi nền văn hóa…
Hình tượng con Nghê trong văn hóa Việt Nam rất có thể bắt nguồn từ Phật sư, nhưng hình tượng ấy được thể hiện nhỏ nhắn và linh động hơn. Người Việt Nam đã khôn khéo xây dựng cho riêng mình con Nghê không giống với Nghê mang hình dáng sư tử, bệ vệ trên các công trình của Phật giáo Ën Độ (hoặc các nước chịu ảnh hưởng Phật giáo và văn hóa ấn Độ).
Con Nghê Việt Nam cũng là một biểu tượng khác với Kỳ lân hay Sư tử Trung Quốc. Con Nghê được trang trí ở Việt Nam không cao lớn như loài Ngựa như sự tưởng tượng về con Kỳ Lân Trung Quốc, đuôi nó cũng không phải là đuôi Bò, thân nó cũng ít khi thấy có vảy cá. Nghê cũng không có đầu nửa rồng nửa thú, và nó cũng không có sừng. Nghê trong mỹ thuật trang trí của người Việt có thân hình vừa phải, không quá to như thân Sư tử. Dáng đứng của Nghê cũng không quá chú trọng đến việc tạo ra sự hiên ngang, khí phách mà thay vào đó là sự uyển chuyển, hài hòa và nhẹ nhàng.
Con kì lân Việt Nam
Tóm lại hình tượng Nghê và Kỳ Lân ở Việt Nam là hai hình tượng khác nhau. Kỳ lân là hình tượng mang phong cách văn hóa Trung Hoa trong khi Nghê là linh vật bắt nguồn từ Phật giáo nhưng đã được người Việt cải biến thuần hóa. Trong văn hóa Việt Nam, qua quá trình tiếp xúc với văn hóa bên ngoài, người Việt đã tiếp thu những điều cần thiết và cải biến để chúng mang hồn Việt và văn hóa Việt.. Trường hợp con kỳ lân và con nghê là ví dụ cụ thể.
5. Con Kỳ Lân theo Phân Tích của giới Khoa Học
Nếu xem những hình ảnh về kỳ lân ta sẽ thấy Lân được miêu tả là con vật có vóc hình của loài Thú, nhưng da thì lại có vẩy của Bò Sát, chân có móng vuốt của Chim, miệng thì nhìn rất giống miệng Cá Sấu, thậm chí nhiều nguồn còn nói là nó sống được dưới nước.
Ta biết là lớp thú tiến hóa từ lớp Bò Sát nên theo logic khoa học thì phải có một loài trung gian trong quá trình tiến hóa.
Như vậy phải chăng Kỳ Lân chính là loài đó mà sau này nó đã tuyệt chủng, và có lẽ chính vì không còn thấy nó nữa nên người xưa đã thần thoại hóa nó thành con linh vật như ngày nay?
6. Kỳ Lân Trong Phong Thủy
Kỳ lân là loài vật chuyên bảo vệ và canh giữ cửa ngôi nhà, miệng há to thu hút và trấn áp mọi loại hung khí vào nhà.
Tượng kỳ lân trong phong thủy thường dùng trấn giữ cửa nhà, hoá giải hung khí chiếu tới khi đối diện với của nhà khác, bị ngã ba, ngã tư, đường vòng, hoặc góc nhọn chiếu vào cửa nhà.