Nguyên tắc chung trong Hầu đồng
Hầu đồng là “di sản văn hóa dân tộc” nó phản ánh tư duy đa thần của con người từ cổ xưa; tin là có đấng tạo ra mọi thứ trong vũ trụ; thế mới gọi là “mẫu”; là “mẹ” sinh ra tất cả. Nữ thần Mặt trời; Nữ thần Mặt trăng; rồi Thần Sấm; Thần Chớp v.v… đều thế cả.
Vậy nguyên tắc chung khi hầu đồng như thế nào ?
1. Ba giá Mẫu
Tuyệt đối không được mở khăn. Không có khăn phủ diện màu vàng. Không mặc áo Mẫu; nếu mặc thì phải có áo bản mệnh ở trong. Giá Mẫu đệ nhất; đệ nhị lễ hương sống; giá Mẫu đệ tam lễ hương chín.
2. Phật; vua cha Ngọc Hoàng; Mẫu Địa; Mẫu Cửu; công đồng thánh Mẫu
Trong hầu đồng không có hầu Phật; vua cha Ngọc Hoàng và công đồng thánh Mẫu.
3. Áo bản mệnh và khăn phủ diện
Là cái gốc; cơ bản cao nhất trong hầu đồng; vì vậy bắt buộc phải có. Hiện nay có một số đối tượng mặc áo Mẫu để hầu Mẫu còn áo bản mệnh được cúng lễ khai chứng đàng hoàng thì vứt đi đâu; áo Mẫu ai “chứng” mà hầu. Một số kẻ còn ngông cuồng hơn; khác người hơn là dùng khăn phủ diện màu vàng. Tôi không hiểu; khăn vàng này chắc là bóng Phật về chứng để hầu Mẫu vì Mẫu là bồ tát; trong khi đó Phật lại không ngự đồng thì về “chứng” ở đâu. Đối với đạo Mẫu phải được đạo trưởng pháp sư dẫn thỉnh; thay quyền Phật thánh loan giá chứng lễ.
4. Hầu nhà Trần
Hầu Đức ông đệ tam mới lên đai thượng. Cô ĐỆ NHẤT áo đỏ; Cô Đôi áo vàng.
Xem thêm: Một số lưu ý khi hầu nhà trần tại đây.
5. Các quan
Khi các quan về phải đi mạng chéo; thắt khăn chữ “phúc” hoặc lên nét. Không được đi hia đội mũ; đó là đóng kịch diễn tuồng. Quan đệ nhất thuộc dòng di tu nên khi ngự đồng; khai quang làm lễ; không ngự vui hiến tửu. Quan đệ tứ dòng khâm sai cũng vậy. Khi khai quang bắt buộc phải dùng khăn tấu hương. Giá các quan Ông hoàng; Cậu phải lễ 4 lần; mỗi lễ lễ 3 vái ở giữa; 2 vái 2 bên; 1 vái tất cả. Các giá trên lễ phải dùng khăn tấu hương và hương. Mỗi lần lễ là biểu hiện dâng hương về mỗi phủ một lần. Khi tiến lùi để lễ thì lùi 2 tiến 3. Mặt ngửng lên nhìn công đồng nhưng khi quỳ lễ phải cúi mặt nhắm mắt. Bốn lần lễ không được bỏ hương; nếu chỉ lễ một lần phủ đệ nhất; ba phủ còn lại dùng khăn tầu hương thì khác nào có bát mà không có gạo; có cốc mà không có nước; đó là hành động bất kính. Trừ những vị đồng cựu không đứng lên được thì phải tiến hương lên công đồng; sau đó dùng tay chống gối đứng lên – “ốm tha già thải” ; đó là được miễn giảm chứ không phải lệ như thế.
Cúng tế trong hầu bóng khác hành tế trong lễ hội. Cúng tế trong hầu bóng; lùi 2 bước tiến 3 bước dứt khoát; rõ ràng nhưng hơi nhanh biểu hiện sự làm việc tâu đồi tiến cúng; là bóng quan về làm việc. Hành tế trong lễ hội biểu hiện sự đồng tiến và là quan viên chứ không phải bóng quan; vì vậy đi theo nhịp trống; có chủ tế; tiến hương tiến hoa riêng biệt. Đó là người trần cúng tiến lễ nghi.
Giá các quan gấp khăn tấu hương và châm hương để khai quang chứ không dùng khăn tay hay khăn mặt (khăn tay; khăn mặt chỉ để lau chùi mà không thể để thay thế khăn tấu hương). Quan tuần tiễn đàn phải rải gạo muối
Múa kiếm múa đao không được chỉ vào công đồng; không được cứa cổ mình.
6. Tất cả các hành động lễ ngự; làm việc; khăn áo đều phải xin phép và chứng hương
Chứng người; chứng ngựa; chứng voi; chứng tam đầu đều phải phủ khăn tấu hương lên đầu sau đó khai quang lễ 5 lễ; vỗ vào hông voi; ngựa 3 lần.
Các quan; Ông hoàng; Cậu ngồi xếp vòng tròn hoặc vắt chân chữ ngũ; đeo 2 mạng chéo; nét buộc chữ phúc hoặc khăn mỏ rìu. Các giá Chầu bà và Cô đều phải quỳ hành lễ; khai quang bằng quạt và hương chín. Một số giá như giá cô Cả; cô Bơ về hiến hương không múa cờ thần cờ hội (cờ thần thì để treo; cờ hội chỉ có diễn viên hề trên sân khấu mới múa chứ trong hầu bóng chỉ đi ngọn cờ hồng bằng khăn phủ diện).
Đầu xuân thì không đi cờ kiếm; đi ngọn cờ hồng; chỉ dùng cờ lệnh kiếm lệnh khi khai đền lập phủ. Đầu xuân cũng kiêng mặc đồ trắng kể cả giá bản đền là thoải đều phải mặc áo đỏ khăn đỏ thể hiện ngày vui đầu năm phù hợp với phong tục truyền thống Việt Nam. Hiện nay do sự không hiểu biết và bảo thủ; các vị đồng bóng cứ khăng khăng cho mình là đúng nên đã đảo lộn hết trật tự khuôn phép.
Chỉ có 5 vị quan trên công đồng nên không có thêm vị quan nào khác ??? vị quan bản đền bản cảnh.
Không có cái gọi là Lục phủ tôn ông trong đồng bóng.
Không có cái gọi là Mẫu lâm cung trong đồng bóng.
7. Các giá Chầu và các giá Cô
Các điệu múa giá Chầu giá Cô phải nhẹ nhàng phải nhẹ nhàng. Các Chầu phải lên khăn củ ấu; chữ nhân; nón buồm. Các Cô lên khăn hoa; khăn vành dây; nét. Cô Bơ có thể lên nét 3 màu.
Giá các Chầu các Cô về khai quang đứng quát hiến quạt hiến hương chứ không nghiêng ngả không múa. Giá chầu bà Đệ nhị và chầu Lục về chỉ rải lộc cho bản đền chứ không đi chợ. Giá chầu Năm chầu Bé rải lộc; đi chợ. Giá chầu Mười cưỡi ngựa đeo cờ kiếm; không đi giày. Đầu xuân giá chầu Đệ nhị về rải lộc rải hoa. Vào hè giá tiên cô về giải dịch (tiền và hoa quả). Các thứ đó không ăn được phải thả sông hoặc ngã ba đường. Thường thường về giải dịch là giá cô Đôi hoặc cô Sáu.
Bất kể khi hiến tửu; thuốc hay nước đều phải dùng khăn hoặc quạt che miệng. Không rải tiền xuống đất để chèo đò. Đó là rải tiền cho người chết chứ thánh không cần. Giá cô Bơ cài tiền đò bên hông và cài 1 nén hương sống bên tai. Hầu các giá đều không được quay đáy vào công đồng; không được xỉa xói vào công đồng.
Hầu đồng giá thứ nhất phải tung khăn; tẩy khẩu; phải đội bát nhang trước mới được mở phủ; nếu ốm phải cúng tam phủ thục mệnh trước mới mở phủ. Nơi đội bát nhang là chốn tổ; nơi thờ đó là quan trọng nhất. Nơi mở phủ là mượn cảnh để mở; là thứ hai. Các cụ gọi là “một chốn đôi nơi”. Muốn mở phủ phải có thày khai đàn mở phủ. Mở phủ phải dùng kiếm để mở. Nếu không có căn kim chi thì quan Đệ nhị và Đệ tam về mở phủ; gọi là mở chéo. Còn căn kim chi đôi nước thì cả bốn quan đều dùng kiếm. quan Đệ nhất và Đệ tứ không múa kiếm mà chỉ làm lễ kiếm lệnh để khai phủ thôi. Phủ tượng trưng cho giếng nước của từng phủ “trồng cây; đắp nấm; đào giếng; gieo mầm”. Vì vậy phải dùng kiếm để khai phủ chứ không dùng gáo; làm sao đào giếng bằng gáo được. Người ta gọi là khai phủ chứ không phải gọi theo ngôn từ bịa đặt là động phủ; chọc phủ (không hiểu họ động cái gì; chọc cái gì??).
Hầu đồng phải có sớ hầu; nếu “một chốn đôi nơi” thì phải có sớ bay về các nơi mở phủ; đội bát nhang; nhưng trước đó phải có lễ đến trình báo; sau khi hầu xong 3 ngày mới được lễ tạ. Nếu ở xa thì lễ tạ ngay nhưng khi về chốn tổ vẫn phải lễ tạ bái vọng.
Trước khi hầu đồng phải xin phép thánh; chủ nhang; đạo trưởng; cung văn; pháp sư và bách gia trăm họ. hầu xong phải vái tạ Phật thánh và có lời cảm ơn bách gia. Khi định hầu thánh phải đến xin phép thày; mua lễ lễ thánh xin ngày. Khi mời quan thày; chủ nhang; đồng đền; pháp sư đều phải có lễ đến lễ thánh sau đó mới mời thày; mời đồng. Lộc đưa các vị đó và những vị đồng cựu (24 năm đổ ra mới được gọi là đồng cựu nếu không có điện thờ) phải được đưa bằng đĩa.
Hầu đồng không nên trùm khăn buồm quá dài. Đó là khăn phủ tượng chứ không phải khăn hầu. Giá các ông Hoàng đi hèo đi thơ. Giá ông Chín không đeo kích cầm batoong trông như thày bói mù dở mà ông là người nho sĩ tu Phật. Không bao giờ người ta đi dép; đi guốc mộc trên sập hầu cả.
Hầu đồng phải nghiêm trang thành kính nhất tâm; vui vẻ hoan hỉ; không xúi bẩy nhau làm những điều không hiểu biết. không nói xấu; lừa đảo nhau; không dựa vào đồng bóng làm những điều bất nhân bất nghĩa; không nên so bì ghen tị; hồ nghi; đồi hỏi; tranh giành nhau về lộc.
Những kẻ lợi dụng đồng bóng là lừa đảo; ác ma. Sự đua đòi; ghen ghét; thù hận chỉ đem lại khổ đau cho bản thân.
Nguồn: FB Căn đồng Số Lính.
Được đóng lại.